Tên di sản : Trò diễn Xuân Phả
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Lễ hội truyền thống
Sô quyết định : 3247/QĐ-BVHTTDL
Danh mục di sản: Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia,
Giới thiệu
MIÊU TẢ VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ:
1. Vị trí địa lý và truyền thống lịch sử - văn hóa
Làng Xuân Phả là một trong những làng việt truyền thống nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ thuộc hữu ngạn sông Chu (con sông lớn thứ hai trong tỉnh Thanh Hóa), nay thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa về phía đông gần 40km.
Từ thuở mới hình thành, Xuân Phả là một dải đất nhỏ hẹp có tên là Một Cốt – tức là một cốt đất cao nhô lên giữa một vùng đất trũng quanh năm ngập nước có tên là “Đinh Mùi Khố” (túi đựng nước) - kho chứa nước ở hướng Đinh Mùi - như hình lòng chảo ở trước làng [nay là đồng Ngua, vành sông, ngã ba cống - nước từ các làng Hương Nhượng, Công Thành chảy xuống; phía Đông Nam nước từ các làng Dống Nải, Hội Hiền, Bái Trạch, chảy qua Nổ Huynh, Tào Khê chảy ra ngã ba Cống, rồi đóng thành phả, không có đường tiêu thủy, chờ khi nào nước quá lớn thì tràn qua đồng Nước Su (nước sâu) sang Chổng Sóc rồi ra Đồng Cùng chảy ra sông Sủ (sông Chu)]. Vùng đất trũng này, về sau là địa bàn sinh tụ của cư dân 12 xứ láng (kẻ Láng) nay thuộc địa bàn 2 xã Xuân Trường và Xuân Hòa. Trong số 12 xứ láng ấy thì có 6 xứ láng gồm láng Trang, láng Thượng, láng Sở, láng Trung Thôn, láng Đồng Thôn, láng Hạ thuộc xã Xuân Trường; 6 xứ còn lại thuộc địa bàn hành chính xã Xuân Hòa. Lúc đầu dân cư của kẻ Láng còn thưa thớt, nhưng ở trên dải đất cao, họ canh tác cây lúa nước và đánh bắt thủy sản trên sông Chu để đảm bảo đời sống hàng ngày. Đến thờ Lý - Trần, vùng đất Một Cốt này đã trở thành trang ấp, có tên là láng Trang (tức trang ấp của xứ Láng). Đồng thời với việc hình thành trang ấp, việc đắp đê ngăn lũ đã trở thành nhiệm vụ bức thiết và thường xuyên của cộng đồng làng xã cư trú dọc sông Chu. Lúc này cư dân ở xứ đồng Chấp dời về khu đất phía trong bờ để có tên là Mã Cừ, và cũng từ đấy Mã Cũ là địa bàn cư trú của nhân dân làng Xuân Phả (tức Láng Trang), trong 12 xứ Láng ở đây.
Đến thờ Lê sơ (thế kỷ XV), láng Trung đổi thành Xuân Phố trung thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa; thời cuối Lê đầu Nguyễn đổi thành làng Xuân Phố, tổng Kim Thạch, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa. Cư dân Xuân Phả (thời Nguyễn) đã tách một số hộ xuống bãi bồi ven sông Lường (sông Chu) làm ăn sinh sống hình thành nên xóm Đặng – thời vua Khải Định (1920), nhà Nguyễn cho thành lập thôn Đặng Phúc. Năm Bảo Đại thứ 3 (1928), thôn Đặng Phúc đổi thành thôn Cao Trường.
Làng Xuân Phố thời Nguyễn được chia làm 6 giáp. Năm 1932 thêm giáp Trường Thọ (sau đổi thành thôn Thọ Khang). Trước cách mạng tháng Tám 1945, các thôn này thuộc xã Xuân Phố. Sau cách mạng tháng Tám đến năm 1947, làng Xuân Phố đổi thành Xuân Phả, Cao Trường và thị trấn Thọ Khang sát nhập vào xã Thái Hòa gọi là xã Xuân Hòa. Năm 1953, xã Xuân Hòa tách thành 2 xã: Xuân Hòa và Xuân Trường, làng Xuân Phả thuộc xã Xuân Trường. Tháng 8/1965, tách thôn Thọ Khang thành thị trấn Thọ Xuân; xã Xuân Trường chỉ còn lại làng Xuân Phả cũ và làng Cao Trường, hiện nay được chia làm 9 thôn có tên gọi: làng Thượng, làng Trung, làng Đoài, làng Yên, làng Cao Thắng, làng Cao Thành, làng Liên Thành và làng Hợp Thành. Cư dân ở đây chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp, trồng cây lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Cùng với quá trình khai phá đất đai, tạo lập xóm làng, người dân làng Xuân Phả đã tạo nên một truyền thống văn hóa, lịch sử phong phú đa dạng với những đặc trưng riêng.
Về các di tích lịch sử văn hóa có các công trình kiến trúc tiêu biểu như Nghè Đệ Nhất: là nơi thờ Thành hoàng làng Xuân Phả là Đại Hải long vương. Thần tích ghi chép về vị thần này: “Triều nhà Đinh vào năm Mậu Thìn (968) một hôm nhân dân bỗng nghe ngoài sông lớn sóng gió nổi lên dữ dội và nghe giữa sông có tiếng huyên nào. Dân xã bèn ra xem thì thấy bãi đất bằng ở cạnh sông bỗng thành một vực lớn màu nước lặng trong, có một con rắn lớn nổi lên ở mặt nước, và rồi bỗng biến thành một toà miếu, tường ngói nguy nga. Nhân dân hai xã sợ hãi bèn sắm lễ vật tế cáo, được thần báo cho tên hiệu trên và lập đền thờ. Các triều đại đều có phong tặng. Quy mô kiến trúc ngôi nghè gồm tiền đường (5 gian), chính tẩm (3 gian), có tả vu, hữu vu. Nghinh môn kiến trúc theo kiểu chồng diêm 3 tầng lộng lẫy. Có Bái đường rộng rãi. Nghè là nơi tổ chức hội làng và múa trò Xuân Phả. Nghè đệ nhất bị phá hoàn toàn năm 1967. Năm 2013, nghè đã tôn tạo lại như xưa trên nền đất cũ.
Đền Đệ Nhị: được xây dựng ở trên mô đất cao ở cuối làng, giáp với xã Xuân Giang, hiện nay chỉ còn phế tích. Nghè thờ vị thần là “Cao Minh Linh Quang” mà theo truyền thuyết thì thần hiển ứng phụ giúp Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn thoát khỏi vòng vây của giặc Minh ở vùng bến sông Lương, thuộc địa phận làng Xuân Phả hiện nay.
Đền Đệ Tam: được xây dựng trên bãi nổi giáp sông Chu thờ thần “Thái thích hiển ứng”. Tương truyền, ngôi đền thờ là nơi nghĩa quân Lam Sơn có nhiều người đã bị tử trận, sau được Lê Lợi ban sắc phong thần hiệu là “Thái Thích hiển ứng”.
Chùa Tạu, tên chữ là “Hồi Long tự là nơi thờ Phật. Hiện nay chùa còn nhiều tượng Phật, chuông đồng, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cấp bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
Nhà thờ Thiên chúa giáo được xây dựng ở Xuân Phả, gọi là nhà thờ xứ Láng được xây dựng năm 1867 làm bằng tre nứa, năm 1933 xây tháp chuông, ở đây có một bộ phận dân cư theo đạo Thiên chúa giáo.
Ngoài những di tích tiêu biểu trên, Xuân Trường còn có một số di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hoặc các công thần triều Lê như di tích Rọc Duyệt, Nhà Bia cánh đồng Hộ Nhi,...Trải qua những biến cố lịch sử và thiên nhiên, hầu hết những di tích trên đều bị phá huỷ hoàn toàn.
Bên cạnh các di tích lịch sử văn hóa, Xuân Phả cũng là nơi còn bảo tồn được nhiều phong tục tập quán đa dạng, phong phú như tục lệ ma chay, cưới xin; các lễ hội như lễ Kỳ Phúc, lễ Hạ Điền, lễ Thường Tân (cơm mới), lễ Chạp, lễ Tất Niên, đặc biệt trong đó là trò diễn dân gian làng Xuân Phả với hệ thống trò diễn độc đáo được khai thác và giữ gìn làm phong phú kho tàng di sản văn hoá dân tộc.
2. Nguồn gốc trò Xuân Phả
Nguồn gốc trò Xuân Phả cho đến nay chưa tìm thấy tài liệu chữ viết nào ghi chép một cách đầy đủ về sự ra đời của nó. Các nhà nghiên cứu Âm nhạc, Văn học nghệ thuật, Văn hoá dân gian cũng đã dày công tìm tòi, nhưng vẫn chưa đưa ra kết luận chính thức có sức thuyết phục nhất. Hiện tại có hai nhóm ý kiến:
Theo truyền thuyết lưu truyền trong nhân dân làng Xuân Phả: Vào thế kỷ IX, khi đất nước có giặc ngoại xâm quấy nhiễu biên thùy, vua Đinh Tiên Hoàng sai sứ giả đi tìm người tài giúp vua dẹp giặc, sứ giả đi dọc theo dòng sông Lường (sông Chu), khi trời tối sứ giả nhà Vua đã có lời khẩn cầu thần hoàng làng Xuân Phả là “Đại Long vương”, đêm đến Vua được vị thần hoàng báo mộng...quả nhiên nhà Vua thắng trận. Để báo đáp công ơn thần hoàng làng Xuân Phả nhà vua đã tổ chức hội ăn mừng tại miếu thờ và phong cho thần hoàng làng Xuân Phả là: “Thượng thượng đẳng phúc tân tối linh đại vương” còn gọi là: “Đại Hải Long Vương, Hoàng lang tướng quân”. Trong ngày lễ hội có các nước lân bang đem lễ vật và điệu múa đến để chúc mừng nhà Vua đất Việt gồm: Ai Lao, Ngô Quốc, Hòa Lan, Chiêm Thành, Lục Hồn Nhung. Cũng từ đó vua ban cho nhân dân làng Xuân Phả 5 điệu múa gọi là “Ngũ Quốc Lân Bang đồ tiến cống” được nhân dân làng Xuân Phả lưu giữ.
Các nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian, âm nhạc...cho rằng, hệ thống trò Xuân Phả ra đời vào thế kỷ XV nên “Tàn tích của khúc múa Chư hầu lai triều là điệu múa Xuân Phả ở Thọ Xuân gần Lam Sơn”. Hoặc cũng chỉ còn là vang bóng khúc diễn nướng Bình Ngô phá trận và Chư hầu lai triều”.
3. Trò Xuân Phả trong đời sống văn hóa xưa và nay
Trò Xuân Phả là một điệu múa hát riêng của làng Xuân Phả ở Thanh Hoá, nó chỉ diễn ra hàng năm vào hai ngày mùng 9 và 10 tháng Hai Âm lịch, trong dịp tế Thành hoàng làng Xuân Phả, theo một hệ thống và quy định chặt chẽ. Trò Xuân Phả được coi là Trò - đó là cách gọi trong dân gian, còn thực tế thì nó là các điệu múa hát, mang tính chất độc đáo không giống các điệu múa hát thông thường.
Người làng Xuân Phả rất tự hào về hệ thống Trò diễn của mình và coi đây là vốn văn hoá nghệ thuật riêng của làng được ông cha truyền lại từ đời này qua đời khác. Nó đã đi sâu vào đời sống tinh thần và thực sự trở thành một nhu cầu thiêng liêng của họ, mọi người có quyền tham gia và hưởng thụ. Ai đến tuổi mà không được tham gia civi lý do nào đó. Chẳng hạn: gia đình có đại tang, tiểu có hay có khuyết điểm trong sinh hoạt gia đình và cộng đồng như đánh mắng vợ con, cờ bạc, rượu chè bê tha, ăn trộm ăn cắp...
Lễ hội Xuân Phả không chỉ riêng người làng Xuân Phả, mà còn có quan hệ lân bang với các làng xã trong vùng. Dịp tháng Hai, dân làng Xuân Phả mở hội, các làng lân cận đến dự lễ hội, xem trò, vừa chúc mừng xuân mới, vừa thăm hỏi lẫn nhau. Dân làng Xuân Phả làm cỗ hậu đãi khách xa gần, trong những ngày lễ hội.
Từ xưa, tên làng Xuân Phả đã nức tiếng xứ Thanh và còn vang tận ra nước ngoài, vì có lễ hội múa hát trò Xuân Phả, trước kia gọi là trò làng Láng. Ca dao Thanh Hoá có câu “Ăn bánh với giò không bằng xem trò làng Láng”. Từ những năm 30 của thế kỷ trước, trò Xuân Phả đã được mời đi trình diễn ở nhiều nơi, kể cả biểu diễn tại cố đô Huế. Cụ thể là:
Năm 1935, trò Xuân Phả trình diễn tại Hội chợ nông sản huyện Thọ Xuân, có các quan đầu tỉnh người Việt và người Pháp đến dự; trò diễn còn được giới thiệu nội dung “Điệu múa Xuân Phả” trên Báo Tràng An cuối năm 1935.
Năm 1936, vua Bảo Đại mời trò Xuân Phả diễn tại Hội chợ Kinh đô Huế, sau đó được đưa đi biểu diễn ở Sài Gòn và Hà Nội.
Năm 1939, ông Bouin nhà hoạt động nghệ thuật người Pháp xin đầu tư để đưa trò diễn Xuân Phả sang biểu diễn tại Mỹ, đã được triều đình Bảo Đại cho phép, nhưng chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, nên việc không thành.
Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, trò diễn Xuân Phả đã đi phục vụ công cuộc tăng chiến chống thực dân Pháp. Theo các nghệ nhân cao tuổi làng Xuân Phả cho biết Lần tổ chức hội làng và diễn trò lần cuối cùng vào năm 1948. Đến năm 1967, thì bị phá không còn nơi tổ chức hội làng. Từ đó hình thành đội múa trò đi phục vụ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng, non sông thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII của Đảng đã đề ra, với tinh thần kế thừa và phát huy tinh hoa bản sắc dân tộc, trò Xuân Phả đã vinh dự được tham dự trong những ngày hội lớn của dân tộc tại thủ đô Hà Nội, những lễ hội kỷ niệm anh hùng dân tộc Lê Hoàn, Lê Lợi...ở trong tỉnh vv...
4. Hình thức biểu hiện và quy trình thực hành
Hàng năm vào 2 ngày: mùng 9 và 10 tháng Hai Âm lịch, dân làng Xuân Phả mở hội tế Thành Hoàng. Trong hội, ngoài việc tế Thành Hoàng là trình diễn hệ thống trò gồm:
1. Trò kéo hội;
2. Trò chạy giải;
3. Trò Hòa Lan (còn gọi là Hoa Lang);
4. Trò Chiêm Thành;
5. Trò Lục hồn nhung (thường gọi Tú Huần);
6. Trò Ai Lao;
7. Trò Ngô Quốc.
4.1. Chuẩn bị hội làng
4.1.1 Chuẩn bị làm đạo cụ diễn trò
Hầu hết các đạo cụ diễn trò do dân làng Xuân Phả tự chế bằng nguồn nguyên liệu sẵn có như tre, trúc, gỗ vông, rễ cây si,...Việc chuẩn bị làm các đạo cụ được phân công cho từng giáp. Trong giáp chọn những người khéo, thợ giỏi làm. Trước khi làm đạo cụ hoặc sau khi hoàn thành thiện các loại đạo cụ cho trò của giáp mình, không có nghi hoặc hình thức kiêng kỵ gì cả. Chỉ sau khi lễ hội xong thì các đạo cụ được tập trung bảo quản tại nghè. Mùa hội năm sau lại đem ra lau chùi, chỉnh chu hoặc làm lại (nếu bị hỏng).
Các loại nhạc cụ: như trống, hồ, nhị, thanh la, não bạt...sử dụng trong lễ tế Thành hoàng cũng như diễn trò Xuân Phả, không có cơ sở chế tác hầu như là phải các cơ sở sản xuất khác. Song việc lựa chọn các loại nhạc cụ, nhất là trống trò trợ chú trọng đặc biệt: Trống có đường kính mặt khoảng 60cm - 65cm nhưng phải được tiếng, có nghĩa là “âm” trống phải phù hợp với loại hình trò diễn. “Mõ” có hình đãng cong cong lưỡi liềm, dài khoảng 20cm, được nghệ nhân làng Xuân Phả chế tác từ một gốc tre già, mặt ngoài được làm nhẵn, đục lộng bên trong để có độ cộng hưởng. Khi dùng dùi tre gõ thì nghe tiếng “cốc” giòn tan.
Các loại đạo cụ diễn trò:
Lốt Voi (dài 1,80cm - rộng 0,70cm - cao 1m), gồm các thành phần vật liệu cấu hình: cốt tre - vải bọc (hoặc giấy màu) và một vài vật liệu khác. Cốt voi được làm in các nan tre (hoặc nứa), đan theo kiểu đan sọt (nan tre rộng 1cm) thành hình Voi. Dùng giấy màu đen sẫm hoặc vải đen bọc; tai voi làm bằng gỗ đẽo nhọn, quét sơn trắng; vòi voi, đuôi voi may túi vải nhồi vỏ trấu; chân voi: dùng thừng cói cuốn ống. Phần bụng voi hổng để người đội khi biểu diễn.
Lốt Hổ: làm bằng vải màu vàng, vẽ vằn sọc đen như da Hổ. Vải may thành hình hổ để người mặc, có đuôi dài; mũ hổ chụp vào đầu người có vẽ mặt hổ.
Lốt Ngựa: phần đầu và phần đuôi ngựa đan bằng nan tre,dán giấy nhiều màu. Phần thân ngựa dùng bốn thanh gỗ (rộng 0,05m, dày 0,03m) đóng thành khung hình chữ nhật (0,8m x 0,5m) ở giữa thân ngựa để hổng cho người đứng lọt, có dây đeo vào người khi biểu diễn. Đuôi ngựa làm bằng các sợi gai tước nhỏ như cước và nhuộm màu.
Lốt Kỳ Lân: phần đuôi kỳ lân đan bằng nan tre (hoặc nứa), dán giấy màu. Thân bằng một tấm vải đen rộng 1,50m.dài 3m; đuôi kỳ lân làm bằng tàu cau.
Mặt Nạ: làm bằng gỗ dùng để để diễn trò Chiêm Thành, Tú Huần. Gỗ dùng làm mặt nạ là thân cây vông - một loại cây sẵn có ở làng Xuân Phả. Đặc điểm của loại gỗ này vừa thẳng thớ vừa xốp nhẹ, có độ bền lâu. Sau khi tạc đẽo thành hình mặt nạ (khi gỗ còn tươi) đem ngâm vào nước muối trong thời gian 3-5 ngày. (tỷ lệ muối trong nước khi nếm thử thấy có độ mặn nồng là được); sau đó đem mặt nạ phơi khô, dùng sơn để tô vẽ mặt nạ.
Mũ da bò: da bò được thuộc và phơi khô thành từng tấm rồi cắt và khâu thành hình mũ gồm 2 phần: vành mũ và chóp mũ. Loại vật liệu này còn dùng làm mặt nạ để diễn trò Hoa Lang.
Mũ nan: dùng nan tre mỏng (hoặc sợi mây) đan thành mũ giống hình chiếc nón (dùng vào trò Ngô Quốc, dân gian thường gọi là nón tốt đỏ). Đường kính vành mũ 1,40m, cao 0,25m. Cũng từ nan tre, trong trò Tú Huần, mũ còn được cách điệu, đan nhỏ hơn trò Ngô Quốc rồi dùng lóng lạt tước thành sợi nhỏ, rũ rối cài lên mũ, nên còn gọi là (trò Đội Lóng). Hoặc mũ tre cắm dúm tóc (bằng cây rễ si) toả xuống đến bụng người (trò Tú Huần)
Siêu Đao: làm bằng một loại gỗ cứng gồm 2 phần lưỡi đao dài 0,25m và cán cao dài 1,25m.
Mái chèo thuyền: (tiếng địa phương còn gọi là Bai chèo): làm bằng gỗ, dài 1,2m; nửa trên sơn màu đỏ, phần còn lại sơn màu trắng.
Sênh: làm bằng thanh tre già, lau nhẵn dài 0,2m, rộng 0,05m
Quần áo: thường được may bằng vải lụa, vải nỉ - mua ở nơi khác. Ở địa phương không có cơ sở sản xuất riêng để trang bị cho diễn trò. Tuy nhiên việc cắt may trang phục được tuân thủ theo đơn đặt hàng của đội trò Xuân Phả (miêu tả ở phần sau).
Ngoài ra còn một số loại đạo cụ như Quạt, Cờ Lẹm, Cờ chạy giải,...đều do các nghệ nhân làng Xuân phả tự chế theo đặc thù của hệ thống trò diễn. Hiện nay ở Xuân Phả số nghệ nhân cao niên không còn nhiều nhưng họ đã và đang truyền lại cho lớp trẻ những kinh nghiệm làm ra các đạo cụ.
4.1.2. Chuẩn bị lực lượng cho lễ hội
Từ ngày 4 tháng Hai, các giáp trong làng họp, chọn một số người con trai khoẻ mạnh từ 25 - 40 tuổi với tiêu chuẩn có kĩ thuật múa hát, trong năm không có đại tang hay tiểu cớ, hoà thuận trong gia đình cũng như đối với dân làng để tham gia vào đội Múa Trò. Những ngày tiếp theo, buổi sáng lao động sản xuất, buổi chiều các đội múa của các giáp ôn luyện thành thục các điệu múa, theo sự phân công cố định của làng từ thời xa xưa:
Giáp Thượng, giáp Trường, giáp Trung múa trò Hoa Lang; Giáp Giữa múa trò Tú Huần;
Giáp Đông múa trò Ai Lao;
Giáp Đoài múa trò Chiêm Thành;
Giáp Yên múa trò Ngô Quốc.
Những ngày này, xóm làng vui vẻ, vang rộn tiếng trống trò, không khí tưng Em náo nức đón mừng lễ hội, chuẩn bị đón tiếp bà con xa gần về xem lễ hội.
Ngày mùng 9 tháng Hai, cách của Nghè thờ Thành hoàng chừng 300m mỗi giáp một lá cờ Ngũ Hành, to bằng chiếc chiếu, cột cao chừng 10m, đứng từ xa đã nhìn thấy hàng cờ bay phấp phới trong nắng xuân. Trong sân nghè, các giáp cử người bày bàn thờ, gồm Hộ Bành (là bàn thờ cao), có cắm chiếc quạt to thêu kim tuyến màu sắc sặc sỡ, hai bên cắm 2 tàn xanh. Trên Hồ Bành bài trí 2 thanh kiếm và bát hương.
Tiếp Hộ Bành là ba chiếc Hương án, bày thành một hàng ngang, tượng trưng cho ba vị Thành Hoàng. Trên hương án có bát hương, lư hương, đèn nến, hai bên Hương án bài trí hai con hạc và hai ngựa gỗ, (ngựa hồng và ngựa bạch). Cửa chính và hai cửa phụ của Nghinh Môn che 3 bức màn đỏ, thêu hoa văn và chỉ mở ra khi lễ hội bắt đầu.
Chiều ngày 9 tháng Hai, tại nhà ông Từ Cả (chức vụ người đứng đầu làng từ) làng làm lễ rước văn (bài văn tế Thành Hoàng ngày lễ hội) về Nghè. Các quan viên, bô lão làm lễ yết tế tiên hiền (lễ mời thần thánh, tổ tiên về dự lễ hội).
4.2. Lễ tế Thành hoàng
Sáng mùng 10 tháng Hai, các giáp lần lượt rước cỗ xôi lên Nghè làm lễ tế Thành Hoàng. Riêng làng Cao Trường (một thôn tách khỏi làng Xuân Phả từ lâu đời) cũng nước mâm bánh gai (gồm 100 chiếc) làm bằng bột nếp, mật mía, nhân đậu xanh, cùng tham gia tế lễ.
Cuộc tế theo đúng khuôn thức quy định của triều đình phong kiến đương thời, từ trang phục đến nghi thức tế lễ, gồm có: 3 ông Mạnh Bái, 6 Bồi Bái, 2 Đông - Tây xướng và 8 Thị vệ cầm binh khí đứng hai bên. Ông Mạnh Bái dâng hương, rượu vào đến cửa Nghè, quỳ xuống, ông Từ Cả đánh tiếng kẻng người dâng hương ở cửa đứng dậy, lui ra sân, về vị trí làm tiếp theo sự dẫn chương trình của ông Đông xướng và Từ xướng cho đến khi kết thúc.
Tế lễ xong, quan viên hàng xã, bô lão các giáp ra về. Cũng vào giờ này, các gia đình trong làng sửa lễ cúng chạp tại bàn thờ gia tiên, chuẩn bị những mâm cơm rượu
mời khách là anh em họ hàng gần xa, cùng con cháu ăn uống, trò chuyện thăm hỏi nhau, để buổi chiều đi xem Múa trò Xuân Phả.
Các con Trò trong các điệu múa của các giáp chuẩn bị trang phục cho cuộc trình vào buổi chiều.
4.3. Phần hội làng
4.3.1. Ra đám
Chiều ngày mùng 10 tháng Hai, các giáp lần lượt rước đoàn múa trò vào Nghè múa hát, các đội Trò đi theo đội hình nghiêm chỉnh trong tiếng trống, mõ, não tại Đội hình đoàn Trò được xếp như sau: đi đầu người cầm lọng có gắn biển hiệu là: “Ai Lao đồ tiến công”, trò Chiêm Thành thì “Chiêm Thành đồ tiến công”. Tiếp đó là nhạc (gồm: 1 trống cái, 1 đôi não bạt, mõ, thanh la), đội hình mang cờ Ngũ Sắc và cờ Trò. Đoàn trò Ngô Quốc, trên đường diễu hành có thêm trò vui khôi hài của ông thầy địa lý, tay cầm địa bàn vừa đi vừa chỉ trỏ tìm hướng. Anh Ngô bán thuốc Bắc (giả dạng người Tàu), vai đeo rương thuốc, tay cầm dao cầu, vừa đi miệng hô: ai th...uốc...Anh bán kẹo, hai tay bê mẹt kẹo, vừa đi vừa rao: kẹo...ơ..ơ...làm cho cuộc nước thêm vui. Trò Ngô Quốc khi đi ra ngoài đường vào đám mỗi người một cái ô Tàu. Đoàn trò Hoa Lang có Kỳ Lân, Ngựa dẫn đầu. Đoàn Ai Lao có Voi, Hổ biểu hiện sự hùng dũng, oai phong. Đoàn trò Chiêm Thành trong trang phục áo mũ, mặt nạ một màu đỏ rực, tượng trưng cho dân tộc mình. Đoàn trò Tú Huần mặc áo màu xanh nước biển từ bà mẹ già đến đàn con đều đeo mặt nạ, đi trong khung vuông bằng vải.
Đi sau đoàn Trò là các cụ già, nam nữ, thanh thiếu niên trong giáp với gương mặt hân hoan, tự hào về đoàn trò của mình. Tiếng trống, mõ vang rộn, với cờ đỏ, lọng xanh, các đoàn trò đi giữa, hai bên đường dân làng đón chào hoan hỷ.
4.3.2. Các trò được trình diễn theo thời gian
Chiều ngày mùng 10: Trò Hoa Lang, trò Ai Lao, Trò Chiêm Thành.
Ngày 11 tháng Hai: buổi sáng quan viên trong làng làm lễ cúng Thành Hoàng bằng cỗ chay. Buổi chiều diễn trò Ngô Quốc và trò Tú Huần
3.2.1. Trò Kéo Hội:
Có hình thức ra đám, mở đầu cho cuộc hội làng.
Các giáp trong làng chọn những trai tráng tuổi 18 đến 25. Số lượng nhiều ít tuỳ huộc theo số định từng năm, chia làm hai cánh quân, mỗi cánh quân có 12 người đại diện 12 sứ quân tay cầm cờ có bông lau. Hai cánh quân này đều mặc áo dài lương, quần trắng, đầu chít khăn đỏ, lưng thắt khăn xanh, tay cầm cờ Mông màu đỏ có in hình con rồng, trên đỉnh cán cờ có buộc túm bông lau.
Ngoài ra, làng cử ra hai người làm thủ lĩnh điều khiển trò. Hai người này phải là người có học, am hiểu các tục lệ, lễ hội và trò diễn của làng. Họ mặc áo dài màu đỏ, quần trắng, chít khăn đỏ, thắt lưng xanh, tay cầm cờ Suý hình đuôi nheo. Khoảng 12 giờ trưa ngày mùng 10, số người tham gia trò tập trung tại một thửa ruộng khô bên cạnh Nghè. Mỗi cánh quân xếp thành một hàng dọc theo người thủ lĩnh đứng đầu. Khi hàng quân đã ngay ngắn tề chỉnh, thì người thủ lĩnh phất cờ và dãn cánh quân của mình lượn nhiều vòng trên thửa ruộng khô đó. Khi có tiếng trống chiêng trong Nghè nổi lên thì mỗi thủ lĩnh dẫn cánh quân của mình qua một cửa phụ của Nghinh Môn để vào sân Nghè, hai cánh quân đi ngược chiều nhau theo hình chữ A gọi là nhập Á, tức là lúc vào thì lượn theo hình chữ Thập (+). Hai người chỉ huy đứng đầu hàng quân làm lễ với Thành Hoàng. Lễ xong phất cờ cho hai cánh quân chạy vòng quanh sân 3 vòng tay phất cờ, miệng hò reo náo nhiệt. Rồi lại ngược chiều nhau thành thế chữ “ất” Z gọi là xuất “ất”, qua cửa Nghinh Môn ra ngoài và giải tán.
4.3.2.2. Trò Chạy Giải:
Diễn ra sau khi trò Kéo Hội kết thúc.
Tham gia chạy giải gồm: 12 trai tráng khoẻ mạnh, tài năng được chọn từ các in Họ mặc quần nâu, xắn móng lợn, không mặc áo, thắt khăn đỏ ngang lưng, đầu chít khăn đỏ, tất cả trong tư thế hùng dũng tập trung một hàng ngang trước bàn thờ Thành Hoàng ở sân Nghè. Câu vè còn lưu lại trong dân gian:
“Sân rộng mở hội vân vi,
Mười hai trai tráng chạy thì có tài”.
Nghe hiệu trống tiểu cổ của người chỉ huy, họ quỳ trước Hương án làm lễ vái Thành hoàng, sau đó quay ra xếp một hàng ngang đều nhau chờ trống lệnh xuất phát: “hai tiếng bỏ đi, một tiếng thì chạy”. Khi tiếng trống cuối cùng nổi lên thì tất cả đều hướng theo cánh đồng trước mà chạy. Họ vượt qua cả ruộng khô, ruộng nước, ruộng là lầy chừng1000m để đến mục tiêu.
Mục tiêu là một gò đất cao ở giữa có tên gọi là cồn Chiêm (hiện nay không còn). Thần đã cắm 12 cây thẻ bằng tre, mỗi thẻ ghi một chữ Hán; Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi và có 2 người cầm cờ hiệu túc trực. Mỗi đấu thủ phải lên cồn nhổ lấy một cây thẻ, có thể cầm tay hoặc ngậm vào miệng mà chạy về nơi xuất phát. Một quy định nghiêm ngặt của trò chơi này là khi chạy qua cũ Nghinh Môn ra ngoài sân Nghè thì các đấu thủ mới có quyền chen lấn xô đẩy nhau. Trên đường trở về các đấu thủ không được va chạm xô đẩy nhau. Ai vi phạm sẽ bị loại khỏi cuộc thi.
Những đấu thủ về nhất, nhì, ba chạy thẳng vào sân và quỳ trước hương án, dâng cây thẻ và vái Thành Hoàng. Lễ xong quay ra nhận phần thưởng của làng. Phần thưởng không lớn lắm, được thưởng tiền phần nhiều các đấu thủ đều chia cho các cháu đi xem hội để làm quà nhưng là vinh dự của từng giáp, từng người. Vì vậy nam phụ, lão ấu các giáp kéo ra Nghè rất đông để cổ vũ cuộc chạy giải. Giáp nào có người chạy về nhất, nhì, ba được anh em bạn bè chạy theo reo hò động viên nhằm tăng thêm sức mạnh tinh thần cho đấu thủ. Ở mỗi giáp, những người này còn được nhận phần thưởng của giáp. Tiền thưởng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi giáp. Những đồng tiền thưởng này được xem như là vật làm khước và người được giải là niềm vinh dự của cả giáp. Họ sống trong sự ngưỡng mộ của dân làng.
Tiếp sau cuộc thi Chạy giải, các giáp lần lượt rước đoàn múa Trò vào Nghè múa hát.
4.3.3. Hệ thống Trò diễn chính
4.3.3.1. Trò Hoa Lang: Trò múa mô phỏng việc Hoa Lang đến tiến công vua Đại Việt.
Nhân vật: gồm 17 người:
1 ông Chúa;
1 Mế Mường (vợ Chúa);
1 người hầu; 10 quân;
2 người cưỡi ngựa;
2 người đội lốt kỳ lân.
Đạo cụ và trang phục gồm: 11 mũ da bò màu đen. Hình khép lại khi đội lên đầu bắt hai mép lộn ngược lên.
Mũ của chúa có vẽ rồng chầu mặt nguyệt; mũ của quân vẽ mặt nguyệt ở phía trước;
11 áo dài năm thân bằng vải màu lam (hay màu nước biển, có mặt hổ phù, rồng Tài nguyệt và mây màu vàng, dưới có sóng thuỷ ba (ba đường sóng lượn);
Quần của Chúa, quân và người hầu may bằng vải trắng; riêng quần của mế nàng, bằng lĩnh đen;
13 đôi tất trắng;
12 quạt giấy hoa;
1 cây siêu dao bằng gỗ dài 1,50m, cán sơn đen, lưỡi sơn trắng có đeo hoa giấy bên sống.
10 cây Bai chèo thuyền, mỗi cây dài 1,20m, nửa trên quét vôi hoặc sơn màu đỏ, phần còn lại sơn màu trắng; 2 con ngựa: phần đầu và phần đuôi ngựa đan bằng nan tre, dán giấy nhiều màu. Phần thân dùng hai then dọc và hai then ngang bằng tre hoặc gỗ đóng thành khung và phủ vải màu ở hai bên hông, ở giữa thân ngựa để hổng, người đứng vào đó, có dây đeo vào người cho dễ mang đi;
1 con kỳ lân: đầu đan bằng nan nứa (hoặc tre), dán giấy nhiều màu, thân bằng một tấm vải đen rộng 1,50m, dài 3m; đuôi làm bằng tàu cau, có hai người đội lốt kỳ lân;
2 roi ngựa có hoa dài 0,80m;
11 khăn lụa bằng hoa đào khổ rộng 0,20m x dài 2,5m;
2 lá cờ lụa màu đỏ khổ 0,60m x 0,30m tra vào cán dài 0,60m;
1 lá cờ lẹm bằng giấy mềm màu trắng khổ 0,05m x4m;
2 túi vải hoa khoác vai có thêu nhiều màu sắc;
Nhạc cụ: 1 trống, 2 não bạt, 1 mã la, 1 mõ tre (các loại nhạc cụ này được dùng cho cả 5 trò);
Diễn trò:
Cửa Nghinh Môn mở, trống mõ nổi lên, dẫn đầu đoàn trò vào sân Nghè là người vác long xanh có đeo biển chữ Hán: “Hoa Lang đồ tiến công” vào trước bàn thờ rồi bước sang đứng bên cạnh, hai lính hầu cưỡi ngựa qua Nghinh Môn vào sân Nghè, phi ngựa mấy vòng quanh sân. Đội trò tiến vào dàn thành một hàng ngang theo nhịp trống. Ông Chúa tay cầm quạt, chân trái bước lên nhún, tay trái đưa lên ngang ngực, guộn bàn tay vào cổ tay ba vòng, rồi giơ lên ngang mặt, xoè lòng bàn tay giơ lên về phía Hương án. Các động tác múa chân nhún bước tiến lên gần Hương án thì lại nhún, bước lùi xuống dìu đội quân thành hai hàng dọc tiến lên đứng trước Hương án. Tất cả đều quỳ, hai tay chống xuống đất bái Thành Hoàng ba vái. Ông Chúa tiến lên một bước, quỳ xuống đọc văn tế:
“Trên cửu trùng xiêm áo thảnh thơi
Dưới tám cõi âu ca lừng lẫy
Chúng tôi nay gần về nước Bắc, xa góc trời Nam, há dám lỗi lai vương đường cũ”...
Đấu roi: theo nhịp trống hai người cưỡi ngựa vào cuộc đấu. Họ đều làm động tác chân làm trụ, một chân co lên, một tay cầm dây cương, một tay giơ tay roi đấu. Họ nghiêng người về phía trước, ngã người về phía sau cùng giơ roi đấu. Ngựa lại lượn một vòng tròn để đổi chỗ, hai người lại vào cuộc đấu, động tác như lần đầu. Sau khi đấu roi xong, ông Chúa vừa đi vừa múa, tiến đến trước bàn thờ làm lễ vái Thành Hoàng.
Kéo quạt: Ông Chúa vái Thành Hoàng xong, đứng lên, nhảy lùi theo nhịp trống ta bước một, hai tay múa lên xuống đuổi nhau, đón đoàn quân cùng đi lên, tất cả đều nhảy múa như Ông Chúa. Họ làm thành hai hàng dọc, giao lưng lại với nhau, người vươn về phía trước, chân nhún, hai tay kéo quạt ba lần thì mọi người cùng quay vòng tròn. Khi quay thì chân trái làm trụ, chân phải giơ cao 45°, hai tay cầm quạt, mép hai chiếc quạt giao nhau che ngay trước mặt. Cứ như thế theo nhịp trống, hai chân nhún thế chữ “Đinh”, hướng người về phía trước, cả hai tay đều kéo quạt. Kéo quạt ba lần người xoay đi một hướng, làm như vậy cho đủ bốn hướng.
Múa Siêu Đao: Kéo quạt xong, người ở hai hàng đều quay vào bên trong lấy cờ. Ông Chúa bước lên hai tay trân trọng nâng cây Siêu Đao và múa Siêu Đạo một vòng tròn. Khi tay múa Siêu Đao lượn sang bên phải thì chân trái giơ lên. Rồi một chân kéo quay vòng lại phía sau, dùng Siêu Đao bổ thượng, phạt hạ, lùi tiến theo hình chữ “Đinh”, quay mình đâm chéo sang bên này, quay người đâm chéo sang bên kia.
Múa Phất cờ: Ông Chúa hạ Siêu Đao và lui về phía sau. Hai quân tiến ra, chân trái nhảy thì chân phải co lên, chân phải nhảy thì chân trái co lên, mỗi một bước nhảy thì tay lại phất cờ. Khi phất chéo sang bên trái, lúc phất sang bên phải; trong lúc ấy cả đoàn quân xếp thành hai hàng dọc đứng quay lưng lại với nhau theo nhịp trống làm động tác kéo quạt hai tay không (lần này không dùng quạt).
Múa Cờ Lem: Chúa cầm Cờ Lem từ dưới lên tiến lên. Đội hình quân, múa cờ, múa quạt tách ra thành hai hàng dọc. Ông Chúa tay trái chống vào hông, tay phải phất Cờ Lem lên cao, cổ tay rung nhẹ để cờ tạo thành những vòng tròn lượn sóng quanh người Ông Chúa, cùng lúc này hai hàng quân vẫn làm động tác múa cờ, múa quạt. Một hồi trống rung lên và quân đều dừng múa cờ, múa quạt, tất cả đều đi vòng về phía dưới, mỗi người mang một Bai Chèo.
Theo nhịp trống cả quân Chúa và Mế mường tiến lên xếp thành hai hàng dọc. Ông Chúa cầm Mã La gõ nhịp nhưng đi theo nhịp trống đánh 1,2 thì nhún chân bước lên nhô người về phía trước, trống điểm 3,4 thì nhún chân lùi xuống, ngửa người về phía sau.
Mế Mường đi theo sau cùng làm động tác tiến lùi như ông Chúa, nhưng hai bàn tay và cổ tay guộn tròn trước ngực. Khi nhún và Mế Mường dừng lại thì phía trái là Mế Mường. Ông Chúa và Mế Mường quay mặt lại với nhau.
Một tiếng trống điểm, chỉnh đốn hai hàng quân nghiêm chỉnh. Một tiếng trống tim nữa tất cả đều quỳ xuống, mặt hướng về phía Hương Án, họ gác đầu Bai Chèo đùi, đui Bai Chèo để sang hai bên.
Một tiếng trống nửa điểm, chân bên phải có lên, chân bên ngoài làm trụ, ông Chúa và Mế Mường tay múa, chân nhún bước vào rồi lại lùi ra. Hai hàng quần cứ chìm trong bước lên thì chân ngoài làm trụ, hai tay cầm bai chèo và cùng chèo thuyền theo nhịp trống. Tất cả đều làm động tác chèo thuyền, miệng hát hết các khổ lời ca sau đây:
“Các quan ta, ta là gác mái ý lên, ta chèo ý a cho đều, đố ai ý bắt ta được mà heo a à mái này, đố ai ý bắt được mà theo a à mái này, ý a dô a huy, đo, ta lên” (đó là câu đầu những khổ sau cũng cứ theo điệu này)
“Trò tôi ở bên Hoa Lang
Tôi nghe đức chính tôi sang chèo cháu
Khoan là khoan
Thuyền đà tới bến các quan ta chèo.
“Chúc mừng tuổi Vua vạn niên,
Ngai rồng ngự trị dân yên thái hoà.
Khoan là khoan,
Tay tiên mở túi hồng nhan ăn trầu
“Chúc mừng đại đức thánh minh,
Lịch triều phong tặng tố linh đại từ.
Xinh là xinh,
Hai tay nâng lấy chén quỳnh dâng lên.
“Chúc mừng quan viên xã ta,
Ở trên lại được vinh hoa quỷ quyền,
Khoan là khoan.
Mong người tiến chức thăng quan từ rầy.
“Chúc mừng quan lão xã ta,
Phơ phơ tóc bạc buông hoa trên đầu,
Xinh là xinh,
Chúc mừng quan lão hiển vinh thọ trường.
“Chúc mừng văn vũ hai hàng,
Văn chiếm bảng vàng, võ chiếm quận công.
Khoan là khoan, chúc mừng văn vũ thăng quan từ rầy.
“Chúc mừng cả bảy thôn,
Mở tiệc khôi hài vui thật là vui
Hay là hay.
Mấy khi vui vẻ thế này chèo chơi
“chúng tôi hát chúc đà rồi
Nay xin đánh trống chèo chơi huê tình,
Xinh là xinh
Mỗi năm một cuộc sân đình chèo chơi.
“Từ ngày anh chống thuyền vào,
Mặt em hớn hở như đào trên cây,
Từ ngày anh chống thuyền ra,
Mặt em ruỗi ruỗi như hoa rẫy cành
Dô huy dô
Ta nghe tiếng hò ta đẩy thuyền ra.
Bà Nàng múa quạt theo Chúa.
Hồi trống, kéo vòng ốc chạy ra.
Trò Hoa Lang kết thúc.
4.3.3.2 Trò Chiêm Thành: (hay Xiêm Thành)
Trò mô phỏng việc nước Chiêm Thành đến tiến cống vua Đại Việt
Nhân vật gồm 16 người:
1 ông Chúa;
1 người hầu Chúa;
2 Công Phổng;
10 người quân.
Đạo cụ và trang phục:
12 cái khăn vuông buộc trên đầu có hai sừng đứng thẳng;
12 mặt nạ giống nhau bằng gỗ, sơn đỏ, đục nổi mũi, mồm mím, trong có chỗ cấu vào răng người, không phải đeo quai, hình rất béo mập, mất bằng lòng công;
Áo: loại áo dài năm thân, áo Chúa bằng vải đậu, áo của quân bằng lụa đều nhuộm đỏ hồng, không có thêu vẽ gì. Chỉ có áo của hai ông Phổng là có cổ sòi và cổ xiêm quấn chung quanh mình (hai bộ giống nhau). Chúa và quân mặc áo đều buộc lưng ngang, bỏ quân dài, chân không. Anh hầu có lọng giấy;
Quần: Chúa và quân đều mặc quần dài trắng, riêng Mế Mường mặc quần lĩnh den.
Nhạc cụ: văn trống, mõ...như trò trên.
Diễn trò:
Chúa từ bên trái bước ra, hai tay chống hông, người ngửa về phía sau, chân trái bước thẳng, mũi chân hất lên, chân phải chùng và cứ 4 phách thì bước một bước với động tác nhún lại. Trước khi bước thì giật vai ba lần (giật vai là động tác cơ bản của Trò này). Bằng động tác như vậy, ông Chúa tiến lên phía Hương án. Đến nửa đường Chúa theo nhịp trống chuyển động tác nhảy ba bước một, một tay cao, một tay thấp, bàn tay lúc nắm lại, khi xoè ra như bông hoa biểu hiện cho động tác tung hoa. Hoa tung sang trái, hoa lại tung sang phải, vừa tung hoa vừa đi lên.
Đứng trước Hương án, Chúa xập hai tay bái ba bái, quỳ gối, hai tay chống xuống đất, cúi đầu vái ba bái, đầu ngẩng lên, hai tay cầm quạt che trước mặt như người đương khấn.
Hồi trống rung lên, hai Phổng từ dưới đi hai hàng tiến ra. Hai tay chấp trước ngực cầm cây gươm rung rung, chân xiến đi lên theo hai hàng dọc, đến gần nơi Chúa thì quỳ, hai Phổng cùng quay mặt lên dâng hương vào án, rồi vẫn động tác tay chấp trước ngực, chân xiến đi ra ngoài.
Chúa xập quay lại, đứng lên vái Thành hoàng, rồi vẫn như động tác ban đầu nhảy lui xuống để rước đoàn quân đi lên. Đoàn quân từ hai bên bước vào xếp thàn một hàng dọc, hai tay chống vào hông, chân trái bước thẳng, chân phải chùng. Khi chân phải bước thẳng thì chân trái lại chùng, người ngả về phía sau, cứ bốn nhịp bước lên một bước và trước khi bước phải giật vai ba lần. Đến gần Hương án, họ xếp thành hai hàng dọc, rồi vẫn động tác cũ mà tiến lên. Đến giữa chừng, hai hàng quân quay mặt với nhau, đứng tại chỗ múa, một tay cao quá đầu, một tay thấp ngang cằm, hai bàn tay nắm lại biểu tượng như bông hoa, khi xoè tay ra biểu tượng tung hoa. Cứ như thế theo nhịp trống tung hoa mỗi lần thì nghỉ một phách.
Cả hai hàng dọc đứng tại chỗ, cùng quay một vòng rồi ngồi xuống, tất cả đều mây ngồi rồi tung hoa. Bằng động tác tượng trưng là hai bàn tay lúc nắm lại, lúc xoè ra trước ngực. Cứ ba lần tung hoa thì nghỉ một phách. Tất cả đứng lên, vẫn giữ hai hàng dọc, làm động tác giật vai cùng tiến lên.
Lúc này Mế Mường xuất hiện, tay cầm quạt vừa nhảy vừa quạt cho Chúa và quay sang quạt cho cả đoàn quân với thái độ âu yếm. Trống chiêng dồn dập như thúc giục ông Chúa, Mế Mường và hai hàng quân bằng động tác giật vai tiến lên trước Hương án, vái ba bái và cúi đầu đi ra.
Về nhịp trống trong trò Chiêm Thành cứ ba nhịp một từ đầu đến cuối:
Rập rập thùng thùng thùng
Rập rập thùng thùng
Khi đoàn trò mới vào, trống rung luôn cho hai phổng dâng hương và người hầu mang lọng gần biển hiệu “Chiêm Thành đồ tiến cống” vào đứng bên hương án. Sau đầm mới bắt đầu diễn Trò.
4.3.3.3. Trò Tú Huần:
Trò Tú Huần (còn gọi là Lục Hồn Nhung). Theo Giáo sư Vũ Ngọc Khánh thì “Nhung” là “Rợ”. Lục Hồn Nhung là một tộc người Rợ có tên là Lục Hồn Nhung. Trò Tú Huần: mô phỏng việc tộc người Tú Huần đến tiến công vua Đại Việt.
Nhân vật:
1 ông Cố lão;
1 bà Cố (mẹ Tú Huần);
1 người hầu Cố;
10 người con Tú Huần;
Đạo cụ và trang phục:
Buồng: bằng vải sọc dài 8m, rộng 1,50m quây vuông để mẹ con Tú Huần đứng ở trong khi rước Trò;
11 đôi sênh làm bằng tre già lau nhẵn dài 0,30m; to 0,05m; dày 0,02m;
1 túi đựng trầu;
1 gậy trúc để Cố già chống đi;
1 quạt giấy;
11 cái mũ bằng tre, cái long tre (gọi là mũ loóng) cài như mũ lưới, có lồng lạt cài rất nhiều như tóc bạc trên đầu. Cho nên còn gọi là “Trò đội lồng”. Đầu ông Cố lão thì trùm vải xanh như cạo trọc, có cây gậy trúc để Cố lão chống;
11 khăn vuông lót màu vàng;
12 mặt nạ: bằng gỗ đục rõ mắt hổng, trán to, mũi to, mồm rộng mà răng rụng gần hết, sơn màu trắng, có chấm chấm như mặt nạ người già;
Để phân biệt được người già cả (cha mẹ) với con cái, người làm mặt nạ hiện qua số răng của mỗi người. Chẳng hạn: mặt nạ của người mẹ trẻ hơn ông Cố một chút; mặt nạ của đội quân thứ nhất chỉ có một răng, đội quân thứ hai là 2 răng...).
13 áo dài tứ thân (vải cứng màu xanh chàm, không thêu vẽ gì. Riêng có áo của Tú Huần thì vẽ mặt Hổ phù);
13 quần dài màu xanh lam (quần xắn cao lên nửa cổ chân);
3 khăn thắt lưng lục. Đi chân không.
Diễn trò:
Trống, mẽ nổi lên. Người hầu dìu Cố già đi ra thong thả theo nhịp trống. Người hầu lúc quạt, lúc thì làm động tác giả trầu cho Cố già. Hai người đi quanh một vòng sân, vui vẻ với mọi người. Hết vòng, người hầu dìu Cố già vào trong.
Người Mẹ vừa gõ sênh vừa nhảy tiến thẳng đến gần Hương án, quỳ xuống chấp tay ba bái rồi đứng lên, theo động tác ấy nhảy về nơi xuất phát. Người Mẹ “hú” lên một tiếng thì đàn con từ bên trong phát ra tiếng “hẹ”. Mỗi bên 5 người nhảy và gõ sênh như động tác của Mẹ, tiến ra theo người Mẹ lượn một vòng và đổi thành hai hàng dọc.
Người Mẹ đứng giữa hai hàng quân, hú một tiếng, tất cả đều quỳ xuống vái về phía Hương án rồi đứng lên. Theo đ nhịp trống, tất cả đều ngồi xổm, tay gõ sênh, chân nhảy cóc, từng đôi một quay lại với nhau, vươn người sang trái, gõ sênh: vươn người sang phải, gõ sênh.
Nghe tiếng hú của Mẹ, tất cả đều nhảy quanh vòng tròn tại chỗ của mỗi người, xong lại ngồi xổm nhảy cóc lùi xa, tiến lại gần nhau. Lại có tiếng hú của mẹ, tất cả đứng lên nhảy vòng tròn tại chỗ theo nhịp một hai lần chuyển đội hình thành hai hàng dọc, tất cả hướng về Hương án.
Có tiếng hú của Mẹ, tất cả đều quỳ thẳng người, cùng nghiêng đầu sang phải, hai 2 đưa sênh lên gõ sát vào tay phải của mình, rồi cùng nghiêng đầu sang trái, hai tay đưa sênh gõ sát vào tai trái của mình. Động tác này làm ba lần, rồi cả hai hàng quân cùng đứng lên theo Mẹ xếp thành hai hàng dọc. Người Mẹ đứng giữa, hai hàng quân đứng quay mặt vào với nhau, tay gõ sênh, miệng hát.
Tú Huân là Tú Huân ta,
Là Tú à Huân à ta,
Sớm dậy ý rửa a mặt, đeo hoa ăn trầu
(Sớm dậy ý rửa mặt, đeo à hoa ăn trầu).
Tất cả cùng quay ba vòng tại chỗ theo nhịp sênh nhanh và hát tiếp, cứ sau mỗi ăn bát thì lại làm động tác như vậy.
Điệu hát này theo lối lục bát, nhưng hát hai câu một. Cứ hát xong là dồn trống mau ba nhịp vừa hú theo tiếng sênh hết lại bắt hát câu khác. Nội dung hát như sau:
Tú Huân kia hỡi Tú Huân,
Mẹ đi đánh trống lấy phần con ăn.
Ăn rồi con lại giữ nhà,
Mẹ đi đánh trống rước cha con về.
Cha con đã về ở tế (tê=kia)
Quần quần áo áo rê rê cả đường.
Hêu tình kia hỡi huê tình,
Yêu kẻ một mình, ghét kẻ có đôi.
Huê tình kia sắc sở mọi nơi
Gái đường huê nguyệt chẳng chơi cũng hèn.
Huê tình chẳng huê tình không,
Lại có huê nguyệt ở trong huê tình.
Hỡi người cao cổ cổ hoa.
Vào đây đánh trống cùng ta,
Được tiền ta sẽ chia ba cho mình.
Ta chiền hàng xứ xê ra.
Nào người nhân ngãi đường xa thời vào,
Ta ghét con mắt ấy thay,
Yêu nhau nó rẫn lông mày nó lên.
Cuối cùng, ông Cố lão có anh hầu dẫn vào trước Hương án bái yết, rồi đi ra. Hết Tú Huần.
4.3.3.4 Trò Ai Lao
Trò mô phỏng việc nước Ai Lao (Lào) sang tiến cống vua nước Đại Việt. Đoàn quân về kinh đô dự lễ hội mang theo cả voi, hổ.
Nhân vật: gồm 17 người:
1 ông Chúa;
2 Mái Mường; 2 anh hầu có cáng, 1 anh lính đeo sung;
10 người quân;
1 người đội lốt Hổ;
2 người đội lốt Voi;
1 người Quản tượng;
Đạo cụ và trang phục:
Mũ: 10 cái mũ, rễ cây si cắm đúm vào cái mũ nhỏ như gua nón đàn bà, để đĩa tóc xõa xuống mình đến quá bụng;
Mặt không đeo gì cả;
Áo bằng vải phá của Mường, (10 tấm vải pháp hình chữ nhật dài 2m, rộng 14m vào mình, ra ngoài áo thường, xéo qua vai như người đeo dải bội tinh.
Chân đi không; quần dài màu trắng. Ông Chúa mặc áo thụng màu xanh chàm có bối mí màu xanh thẫm, ngực có mặt nguyệt và đôi rồng chầu; thắt lưng bằng lụa màu đỏ, đội mũ quan văn cao chừng 0,30m, không có cánh chuồn; trước mũ có hoa mũm mặt nguyệt, bụng phệ, lưng gù cao.
Mái Mường mặc áo khoác ngắn màu trắng, váy màu xanh chàm dài lấp gót chân, có dệt hoa văn Lào; thắt lưng xanh màu hoa lý; đeo nón, đầu bịt khăn, tóc búi ngược;
1 chiếc cáng: đòn khênh bằng luồng hoặc bằng tre dài 2m có 2 người khiêng, buộc 1 dây dùng làm võng;
1 lốt hổ: lốt hổ may bằng vải màu, áo liền quần, vẽ vằn sọc đen như da hổ thật. Mũ chụp đầu có vẽ mặt Hổ, phía sau có đuôi dài;
1 lốt voi: lốt voi đan bằng nan tre (hoặc nứa), bọc vải (hoặc dán giấy) màu đen xám, hai ngà làm bằng gỗ sơn trắng, đuôi voi bằng vải, nhồi trấu, bốn chân làm bằng hình cói uốn cống, do hai người đội và 1 người dắt;
2 cây súng kíp;
1 búa cho Quản tượng: búa làm bằng gỗ, lưỡi sơn trắng.
Diễn trò:
Trống rung liên hồi, đội trò Ai Lao kéo ra. Hổ nhảy chồm xung quanh sân Nghè dẹp đám. Người đóng Hổ biểu diễn tuỳ hứng khi nhảy cao, lúc chồm về phía trước, đi bằng cả bốn chân...Sau khi ổn định trật tự, Hổ đi vào giữa sân, đứng thẳng bằng hai chân sau, hai chân trước vẫy gọi Voi. Người Quản tượng bước ra, quay vào vẫy gọi Voi, Voi đi ra, Quản tượng dắt Voi đi vòng sân Nghè. Voi vừa đi vừa biểu diễn lúc thi vòi lên phun nước, khi lại thả vòi xuống nhổ cây, cứ ba bước tiến thì một bước lùi. Quản tượng làm động tác chui qua bụng voi, múa búa trước mặt Voi, rồi lại thúc Voi đi nhanh hơn. Voi giơ vòi lên cao lượn vòng hai bên. Quản tượng chống hai tay xuống đất, giơ hai chân lên đẩy vòi. Lượn quanh sân Nghè ba vòng Quản tượng và Voi đi vào giữa sân nơi Hổ đứng. Theo lệnh của Quản tượng, Voi cúi đầu chào gian và cùng Hổ đi khuất.
Trống lại rung liên hồi, hai lính hầu vai vác súng, nhảy đá chân sang hai bên; theo nhịp điệu phách 1 và 2 thì đá chân trái; phách 3 và 4 thì đá chân phải, cứ một chân làm trụ thì chân kia nhảy liên tục về phía Hương án. Khi đến gần Hương án mỗi người đều nhảy quay vòng tròn tại chỗ, lúc dừng lại thì cùng hạ súng xuống, quay mà với nhau, hai chân đứng thẳng, tay phải cầm súng, báng súng chấm đất, đứng Chúa ra. Nhạc gõ nổi lên rộn ràng. Mái Mường đi ra cùng hai lính hầu lượn một vòng sân, động tác như lúc lính hầu ra sân lần đầu, đến trước Hương án thì nhạc nổi.
Hai chân Cáng Chúa từ trong sân đi ra. Hai lính hầu và Mái Mường chạy đến đến tận cùng cho cáng đi. Chân họ bước thấp, cứ bốn bước tiến thì hai bước lùi. Mái Mường đi lên đi xuống. Quay lại thăm hỏi Chúa, nhưng cáng vẫn nhịp nhàng tiến lên, đến gần Hương án thì lượn một vòng rồi dừng lại. Hai lính hầu và Mái Mường đỡ Chú từ cáng xuống, hai tay cầm quạt tượng trưng cho bó hương. Chúa Ai Lao đã quá già yếu, chân tay run lẩy bẩy, đầu lắc lư, chân trùng gối khó nhọc đi lên trước Hương án. Mái Mường đỡ Chúa, một lính hầu lùi sang bên giơ hai tay ngang miệng hô: “Mái Mường đỡ chúa, một lính hầu lùi sang bên giơ hai tay ngang miệng hô: “Hơng” thì người lính hầu kia cùng Mái Mường lại ấn cho Chúa nằm xuống vái. Người lính lại giơ tay lên miệng hô: “bái” thì người lính hầu kia cùng Mái Mường lại đỡ Chúa lên. Cứ như vậy vái ba lần, càng bái thì tiếng cười nói của người xem càng rộ lên náo nhiệt. Lúc này Chúa đã mệt xỉu, hai lính hầu và Mái Mường dìu Chúa đến nơi có Voi và Hổ, ngồi tựa vào ghế.
Trống, mõ, chũm choẹ chuyển nhịp, tốc độ nhanh, vui nhộn, 10 quân tiến ra sân theo hai hàng dọc, hai tay gõ sênh nhịp đôi, cứ hai phách một mõ, giơ đôi sênh lên phía trước mặt. Trống mõ rung lên, chân chạy nhanh, bước nhặt nhưng lướt nhẹ, sau chuyển tốc độ.
Cả 10 quân đi bình thường, tay gõ sênh đôi, xếp hai hàng dọc, người đi cúi lom, hai chân nhảy cóc, cứ 2 phách nhảy một bước, chân chụm lại nhảy tiến lên gần Hương án, hai hàng quân quay mặt vào với nhau. Một chân làm trụ, chân kia co lên 90 độ đạp xuống đất bằng gót chân làm 4 lần như vậy, rồi đổi từ hàng nọ sang hàng kia, cứ gõ hai phách một bước, tay gõ sênh, chân chuyển chỗ.
Trống lại rung lên, tất cả làm lại động tác một chân trụ, một chân co, đạp gót chân xuống đất 4 lần. Mọi người quay vòng tròn tại chỗ và làm lại động tác nhảy cóc, người cúi lom khom, hai tay gõ sênh nhịp đôi. Động tác này làm 4 lần 8 nhịp.
Sau đó, tất cả đều gõ sênh liên hồi, đứng thẳng lên, vừa đi vừa chuyển thành đội hình hai hàng dọc để kéo về phía dưới. Trong lúc chuyển đội hình, chân vẫn bước một tay giắt sênh vào cạp quần, một tay kéo lá cờ đã để sẵn ở sau lưng áo, giơ lên vừa đi vừa tung cờ.
Trống nổi lên một hồi dài, quân vừa đi vừa phất cờ. Cờ được giơ cao quá đầu và nghe nhịp gõ. Họ xếp thành hai hàng dọc, phất cờ ba lần theo trống rung dài. Họ vừa đi vừa múa. Cả hai hàng quân cùng tiến lên ba bước, lại lùi xuống ba bước, rồi tiến lên gần hương án thì dừng lại, cùng quỳ xuống, cúi đầu vái. Tất cả cùng đứng dậy, bước ngang giạt sang hai bên vừa đi vừa phất cờ cùng hai lính hầu. Kết thúc trò.
4.3.3. 5. Trò Ngô Quốc:
Trò Ngô Quốc mang sắc phục và hình tượng người Tàu sang dự lễ hội tại Kinh Đô Đại Việt.
Nhân vật: gồm 17 người:
1 Ông chúa Tàu;
2 nàng Tiên;
1 Bà nàng;
1 thầy Địa lý;
1 thầy Lang;
1 anh bán kẹo;
10 người quân.
Đạo cụ và trang phục
Mũ: vải sơn hình chóp nón, trên chóm có mao đỏ, đội vừa đầu, đằng sau có chóc đuôi xam bằng khăn lụa (2 cái). Mặt có xoa phấn, ria mép và lông mày bằng mực.
Áo bằng lụa màu lam, không thêu vẽ gì, chỉ có lá sòi ở cổ; duy áo Chúa có thêu mặt hổ phù trước bụng và sau lưng;
Chân đi bít tất trắng, bỏ dài quần;
Nàng Tiên: đầu đội mũ hoa sen, mặc áo xiêm dài, tay có vải xanh dài làm cánh. Ông Địa lý đội mũ Tàu (cátquette), mặc áo quần theo lối Tàu, có địa bàn và khăn gối đỏ, chân đi dày Tàu;
Ông Thầy Lang: mặc lối áo thường, đội mũ chạu, có dau cầu và rương thuốc.
Diễn trò:
Theo nhịp trống, mõ, ông thầy Địa lý, thầy Lang và anh bán kẹo vào vái theo lối Tàu. Sau đó, cả ba người dạo quanh sân một vòng trình diễn theo nghề nghiệp của mình: Thầy Lang thì đi cắt thuốc; thầy Địa lý tìm hướng đất; anh bán kẹo vừa rao bán, mở thò lò, rồi vào khuất. Trống mõ, não bạt nổi lên, ông Chúa cùng 10 quân tiến ra, tay trái cùng giờ về phía trước. Tay phải cầm guộn quạt cổ tay. Các ngón tay đuổi nhau theo chiều guộn.
Chân bước theo nhịp trống, cứ hai phách bước một bước. Khi dừng lại, một chân trụ, một chân co thước thợ về phía trước mặt, cổ tay lại guộn tròn và cứ bằng động tác ấy tiến lên gần Hương án.
Khi nghe Chúa phát ra hai tiếng “Xi lô” thì tất cả vẫn giữ hai hàng dọc, quỳ xuống và cùng cúi đầu vái ba lần.
Chúa lại hô “Xi lô” tất cả đều đứng lên với tư thế một chân trụ, một chân co lên về phía trước mặt, một tay thấp co lên, cùi tay chống vào đầu gối, một tay giơ cao quá đầu theo nhịp trống, hai bàn tay khi nắm lại thì xoè ra, các ngón tay khi bật ra. Bằng động tác này, cứ ba nhịp thì đổi chân quay mặt vào với nhau, rồi lại quay mặt về phía Hương án. Riêng ông Chúa cũng làm động tác ấy, nhưng múa quay đi cả bốn mặt. Ông Chúa bước lên cách Hương án chừng 2m, quỳ xuống và đọc văn tế:
Thần văn Ngô Quốc hữu đoạ, tư duy lai vương
Thân Ngô địa tiếp Nam phương.
Tầm hoài Bắc diệt, thê hàn cảm hậu, ngưỡng chu đức đi lai tân bái yết tranh mềm nhập đường tiều nhi khởi vũ, vô viễn phất giới, đi lệnh thị tòng. Tự Nam, tự Bắc, tự Đông, tự Tây, Ngô Quốc hào vô tư bất bắc, duy phiên duy viên, duy hà, duy bình. Chúc Hoàng triều vô cương duy hữu, thiên tử vạn niên”.
Đọc đoạn văn tế vái Thành Hoàng xong, ông Chúa đứng lên hộ “Xi Lô”, tất cả hia hàng đều quay mặt lên, vẫn chân trụ co, hai tay đều guộn và tung bạt ra từng Tấm múa hai lần như vậy. Cũng vẫn động tác ấy, hai hàng quân từng đôi một đổi chỗ cho nhau. Trống cái nổi lên, quân kéo thành một hàng đi về phía trước và xếp hài hai hàng dọc, tiếp tục múa như động tác trên, nhưng mọi người đều phải quay mà về bốn phía. Trong lúc ấy, ông Chúa nhảy lên hai tay nâng cây Siêu Đạo đứng trước hàng quân, hai tay giơ Siêu Đao chỉ lên trời ba lần, cắp Siêu Đao vào nách vòng chéo sang trái, quay sang bên phải đứng tại chỗ múa Siêu Đao quay người đi bốn mình trở tiến lên gần Hương án, múa và cắm Siêu Đao xuống đất, cán Siêu Đao quay lên trời. Ông lượn sang bên phải, tung Siêu Đao chém ngang, chuôi Siêu Đao đánh rập hậu. Ông lại tiến lên múa Siêu Đao rạch con đường máu, liệng lưỡi Siêu Đao ra bốn bên tiến lên chém phía trước, lùi xuống đâm về phía sau và lượn một vòng tròn.
Một hồi trống nổi lên. Ông Chúa cất Siêu Đạo, quân quay xuống. Mỗi người cầm một bai chèo, xếp thành một hàng dọc - Chúa cầm mã la. Mế Mường đi sau Chúa tiến lên gần hương án. Mọi người đều đứng thẳng nghe một tiếng trống, rẽ thành hai hàng dọc hạ bai chèo, quỳ xuống. Nghe tiếng trống, tất cả đều đứng lên, nghe ba tiếng trống, ông Chúa và Mế Mường bước sang hai bên. Quân cùng bước lên một bước. Ông Chúa cầm mã la đứng đầu hàng bên phải, Mế Mường bước sang hai bên. Quân cùng bước lên một bước. Ông Chúa cầm mã la đứng đầu hàng bên phải, Mế Mường cầm quạt đứng đầu hàng bên trái theo nhịp trống đặt đuôi bai chèo ra phía ngoài hàng quân. Tất cả làm động tác chèo thuyền và hát chèo bát theo nhịp trống.
Lời hát (chèo thưởng)
“Tu là tu”
Kỳ này à anh quyết đi tu
Ăn chay ý nằm mộng ý à ở chùa hồ sen.
“Ta thấy cô mình má phấn răng đen
Thấy cô mình má phấn răng đen.
Nam mô a di Phật anh quên mất chùa
Ai mua tiên cảnh thì mua,
Còn có mỡ mít treo chùa Tam Quan
Đợi người quý khách hồng nhan vẫy vùng.
Trống chùa ai ba gỗ cũng thùng
Cửa chung ai khéo vẫy vùng nên riêng
Đầu năm ăn quả thanh yên,
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bông,
Thế gian ăn bưởi nhớ bòng
Ăn cam nhớ quýt, ăn hồng cậy nhau
Trồng chuối nay chuối lỗ nên tàu (mọc tiêu tàu)
Lòng em chỉ quyết tham giàu mà thôi
Chuyển sang điệu chèo cậy (tức là khi thuyền bị mắc cạn), động tác của chèo thuyền mắc cạn, tay cầm bai chèo, đuôi bai chèo đặt ở ngoài hàng quân. Động tác tiến huyền giậm chân hai nhịp, giật mái chèo về phía mình, nhịp thứ ba thì bước đầm hai chân giậm hai nhịp rồi bước xuống. Lúc này Chúa buông mã la, Mế Mường buông quạt. Hai người cùng múa tay không, hai bàn tay múa đối diện với nhau và quay bàn tay vào, quay bàn tay ra theo nhịp trống, làm ba lần như vậy thì đổi nhịp trống, làm ba lần động tác chèo và hát cho đến khi hết lời ca chèo cậy.
Lời ca chèo cậy
Đôi ta như cánh hồng lại chim hồng
Đẹp duyên à mà chẳng ối y đẹp đẹp lòng mẹ cha
Bước xuống thuyền anh giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm ra ván nát thuyền thì long danh.
Có ai tên làm phủ lâm cành,
Để cho em đừng lái cho anh chịu sào,
Luống công anh đứng mũi chịu sào
Thấy mẹ yêu mến khi nào cũng hơn
Chốn tình cờ du thuỷ du sơn,
Biết bao giờ gặp thì hơn bấy giờ
Bạn kim loan kết ngãi tình cờ,
Khi nãy gặp đó, bây giờ gặp đây.
Chốn tình cờ ta gặp nhau đây,
Mượn cắt cái áo, mượn may cái quần,
Yêu nhau xẻ lụa may quần,
Ghét nhau kể nợ kể nần cho nhau.
Anh lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu,
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Ai về chợ huyện Thạch Lâm,
Nhắn nhân ngãi cũ tri âm bạn đồ
Gần thời chẳng hợp duyên cho,
Xa xôi cách mấy lần đó cũng đi,
Anh thương nàng như lá lài bi,
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương.
Khéo khen ai tỏ nẻo đưa đường,
Khen ai nối lái cho nường gặp anh.
Đồn đây có con chim xanh,
Ăn no tắm mát, tìm cành đậu chơi.
Hòn đất bụt anh ném chim trời,
Chim bay đi mất, đất rơi vào chùa.
Vào chùa lạy Phật trở ra,
Lạy Đức Tam tuế, vua cha Ngọc Hoàng.
Túi anh đầy những bạc cùng vàng,
Vàng mượn thợ kéo nhẫn cho nàng deo tay.
Nào ai bám nháy nàng bay,
Thì nàng dẫn lấy nhẫn này cho anh.
Một đêm có năm trống canh,
Têm chầu, cuốn thuốc cùng anh trong nhà.
Năm trống canh anh ngủ có ba,
Còn hai canh nữa anh ra trông trời
Gió tăm tắp buôn chạy ra khơi.
Chàng về Bắc quốc, em về An Nam.
Mưa qua thành lạn, chớp ngàn mây xanh.
Anh khuyên em bốn chữ rành rành
Có thân thì giữ, cháy thành vạ lây.
Đừng còn trách quả anh đây
Trống hồi kéo đi xếp thành một hàng dọc và kéo đi vào khuất.
Lễ hội làng Xuân Phả kéo dài trong 2 ngày, kết thúc vào chiều tối ngày 11 tháng Ta dân làng Xuân Phả lại tiếp tục cuộc sống bình thường lao động sản xuất, chăm bón ruộng lúa, bãi ngô để rồi lại chuẩn bị lễ hội vào đầu xuân năm sau.
https://youtu.be/sk7lJYGJgA8